Cellulose ether là phụ gia chính trong vữa trộn sẵn. Giới thiệu về các loại và đặc điểm cấu trúc của cellulose ether. Ảnh hưởng của ether hypromellose HPMC đến các tính chất của vữa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Kết quả cho thấy HPMC có thể cải thiện tính chất giữ nước của vữa, giảm hàm lượng nước, giảm khối lượng riêng của hỗn hợp vữa, kéo dài thời gian đông kết và giảm cường độ uốn và nén của vữa. Vữa là một trong những vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất trong ngành xây dựng. Với sự phát triển của khoa học vật liệu và nhu cầu về chất lượng xây dựng, vữa đã trở nên phổ biến như bê tông trộn sẵn và nó đã dần được thương mại hóa. So với vữa được chế tạo bằng công nghệ truyền thống, sản xuất vữa thương mại có nhiều ưu điểm: 1, chất lượng sản phẩm cao; 2, hiệu quả sản phẩm cao; 3, ít ô nhiễm môi trường, thuận tiện cho xây dựng văn minh. Hiện nay, Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh và các thành phố khác đang thúc đẩy vữa trộn sẵn, các tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn và tiêu chuẩn quốc gia liên quan đã được ban hành hoặc sẽ sớm được ban hành. Một điểm khác biệt lớn giữa vữa trộn sẵn và vữa truyền thống là việc bổ sung phụ gia hóa học, trong đó ether cellulose là phụ gia hóa học thường được sử dụng. Ether cellulose thường được sử dụng như một chất giữ nước để cải thiện khả năng vận hành của vữa trộn sẵn. Do đó, việc lựa chọn và sử dụng ether cellulose đúng cách và đảm bảo tính ổn định của vữa xi măng bằng cách hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của loại ether cellulose và đặc điểm cấu trúc của ether cellulose đến hiệu suất của vữa xi măng là rất hữu ích.
1. Thành phần và cấu trúc của ete cellulose: ete cellulose là một loại vật liệu polyme tan trong nước, được tạo thành từ cellulose tự nhiên thông qua dung dịch kiềm, phản ứng ghép (ete hóa), rửa, sấy, nghiền và các quá trình khác. Ete cellulose được phân loại thành loại ion và loại không ion. Cellulose ion có muối carboxymethyl cellulose, trong khi cellulose không ion có ete hydroxyethyl cellulose, ete hydroxypropyl methyl cellulose, ete methyl cellulose, v.v. Do ete cellulose ion (carboxymethyl cellulose) không ổn định khi có mặt ion canxi nên hiếm khi được sử dụng trong các sản phẩm bột khô có vật liệu kết dính như xi măng và vôi tôi, ete cellulose được sử dụng trong vữa khô chủ yếu là ete hydroxyethyl methyl cellulose (HEMC) và ete hydroxypropyl methyl cellulose (HPMC), thị phần của chúng vượt quá 90% 2. Ảnh hưởng của ete cellulose đến các tính chất của vữa xi măng 1. Nguyên liệu ete cellulose để thử nghiệm: do Công ty TNHH Hóa chất Shandong Gomez sản xuất, độ nhớt: 75000; Xi măng: xi măng tổng hợp cấp 32,5; Cát: cát trung bình; Tro bay: cấp II. 2 kết quả thử nghiệm 1. Hiệu ứng giảm nước của ete cellulose Hình 2 là mối quan hệ giữa độ đặc của vữa và hàm lượng ete cellulose trong cùng một tỷ lệ trộn, tăng dần. Khi thêm 0,3‰, độ đặc của vữa tăng khoảng 50%, điều này cho thấy ete cellulose có thể cải thiện khả năng thi công của vữa, khi hàm lượng ete cellulose tăng lên, lượng nước sử dụng có thể giảm dần. Có thể coi ete cellulose có tác dụng giảm nước nhất định. 2. Vữa giữ nước Vữa giữ nước là khả năng giữ nước của vữa, đồng thời cũng là chỉ số hiệu suất để đo độ ổn định của vữa xi măng tươi trong quá trình vận chuyển và đỗ xe. Độ giữ nước của vữa trộn sẵn có thể được đo bằng chỉ số Tách lớp và giữ nước, nhưng không đủ nhạy để phản ánh sự khác biệt do có thêm chất giữ nước. Thử nghiệm giữ nước là để tính tỷ lệ giữ nước bằng cách đo sự thay đổi chất lượng của giấy lọc trước và sau khi tiếp xúc với diện tích vữa quy định trong một khoảng thời gian nhất định. Do giấy lọc có khả năng hấp thụ nước tốt nên ngay cả khi độ giữ nước của vữa rất cao, giấy lọc vẫn có thể hấp thụ nước của vữa, do đó tỷ lệ giữ nước có thể phản ánh chính xác độ giữ nước của vữa, tỷ lệ giữ nước càng cao thì khả năng giữ nước càng tốt.
Thời gian đăng: 30-10-2023